Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và vai trò của Mặt trận Việt Minh trong Cách mạng Tháng Tám
Đại đoàn kết dân tộc là truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta. Kế thừa truyền thống quý báu đó, trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, "Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết". Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là tài sản tinh thần vô giá của toàn Đảng, toàn dân, là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Người là kiến trúc sư, là linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc và mặt trận dân tộc thống nhất; là Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, đã mở ra cho nhân dân ta thời đại mới: Thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đại đoàn kết toàn dân tộc cũng là cơ sở để Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh hội ra đời.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người khởi xướng, xây dựng và hết lòng chăm lo cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. (Ảnh tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh)
Nói về vị trí, vai trò của đại đoàn kết dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng. Cách mạng muốn thành công phải có lực lượng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng xã hội mới. Theo Người, muốn có lực lượng phải đoàn kết vì “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”[1]; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”[2]. Để đánh bại các thế lực đế quốc, thực dân, phong kiến, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, nếu chỉ có tinh thần yêu nước thôi là chưa đủ, cách mạng muốn thành công và “thành công đến nơi”, phải tập hợp tất cả các lực lượng, xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững. Người nhận định, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là thiếu đoàn kết, thống nhất. Muốn cách mạng thành công phải có lực lượng cách mạng, muốn có lực lượng cách mạng phải thực hiện đoàn kết. Người viết: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm trọn nhiệm vụ nhân dân giao phó cho chúng ta”[3]; '"Nhờ đại đoàn kết mà trong bao nhiêu thế kỷ, nhân dân Việt Nam đã bảo vệ được độc lập tự do của mình… Nhờ đại đoàn kết toàn dân mà nước Việt Nam chúng tôi nhất định sẽ thống nhất"[4]. Người thường xuyên căn dặn người cách mạng Việt Nam: Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc phải luôn luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Như vậy, trong quan điểm của Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ được xác định là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của dân tộc; phải được quán triệt trong tất cả các lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đến hoạt động thực tiễn.
Vậy, đại đoàn kết dân tộc là gì? Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. Đây là quan điểm sáng tạo, đặc sắc. Vì theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đại đoàn kết toàn dân có nghĩa là phải tập hợp được tất cả mọi người dân vào một tổ chức đấu tranh vì mục tiêu chung. Trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp - dân tộc để tập hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào. Thực hiện đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, tinh thần cộng đồng của dân tộc Việt Nam; phải có lòng khoan dung, độ lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người; đồng thời luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, thực hiện đại đoàn kết với phương châm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, “nước lấy dân làm gốc”. Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi người Việt Nam, được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Đó chính là cội nguồn, sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai, địch họa, làm cho đất nước trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.
Về hình thức của khối đại đoàn kết dân tộc, trong bài viết nhân kỷ niệm lần thứ 40 Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng giải phóng dân tộc là sự vùng dậy của cả một dân tộc để đánh đổ ách thống trị của nước ngoài. Giai cấp vô sản không thể tự mình làm nổi mà phải liên minh với các lực lượng yêu nước trong dân tộc. Và “Cuộc cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Để đưa cuộc cách mạng đó đến thắng lợi, có thể và cần phải thành lập một mặt trận dân tộc rất rộng rãi, đoàn kết tất cả các giai cấp và tầng lớp xã hội mong muốn được giải phóng khỏi ách thuộc địa”. Vì vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi chung chung, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải trở thành sức mạnh vật chất, một lực lượng mạnh có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất, nơi quy tụ, đoàn kết, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức, cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước cùng nhau phấn đấu vì mục tiêu chung là hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ các nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất: Phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công - nông - trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó công nông như là cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác; phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân; phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi, bền vững và đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ như Người khẳng định:"tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài điều hợp lại ở nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, như thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang"[5] . Vì vậy, một sáng kiến lớn, đồng thời là một cống hiến lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đối với dân tộc ta và các dân tộc bị áp bức trên thế giới là việc đề xướng thành lập mặt trận dân tộc thống nhất như Thủ tướng Phạm Văn Đồng, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã phát biểu tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (tháng 5/1983): "Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn luôn thấy ở mỗi người Việt Nam một lòng yêu nước và mặt trận là sự tập hợp và nhân lên gấp bội tinh thần yêu nước đó".
Cách đây hơn 80 năm, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5/1941), Đảng ta đề ra hình thức mặt trận cho phù hợp với tình hình là: “Phải vận dụng một phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân (hơn hết là dân tộc Việt Nam). Cho nên cái mặt trận hiệu triệu của Đảng ta hiện nay không thể gọi như trước là Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, mà phải đổi ra cái tên khác cho có tính chất dân tộc hơn, cho có một mãnh lực dễ hiệu triệu hơn và nhất là có thể thực hiện được trong tình thế hiện tại; vậy mặt trận hiệu triệu của Đảng ta hiện nay ở Việt Nam là Việt Nam độc lập đồng minh hay nói tắt là Việt Minh”. Sự ra đời của Mặt trận Việt Minh đã đoàn kết hết thảy dân tộc, tạo sức mạnh trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đánh đuổi phát xít Nhật - đế quốc Pháp.
Từ khi thành lập, Việt Minh đã nói rõ tôn chỉ và mục đích của mình: “Liên hiệp hết các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đặng cùng nhau đánh đuổi Nhật, Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Đảng Cộng sản Đông Dương là một bộ phận trong mặt trận và trực tiếp lãnh đạo Việt Minh. Ở các làng hay xã có ban chấp hành của Việt Minh do các đoàn thể Việt Minh ở làng hay xã cử ra; tổng, huyện (hay phủ, châu, quận), tỉnh, kỳ, có ban chấp ủy của Việt Minh cấp ấy. Việt Minh toàn quốc có Tổng bộ.
Phương pháp tổ chức các hội quần chúng của Việt Minh rất linh hoạt, thích hợp từng lúc, từng nơi. Ngoài những đoàn thể có tính chất chính trị cách mạng rõ rệt, như: Nông dân Cứu quốc hội, Thanh niên Cứu quốc hội, Phụ nữ Cứu quốc hội, Nhi đồng Cứu quốc hội, Công nhân Cứu quốc hội, Binh lính Cứu quốc hội… còn có những đoàn thể đơn sơ như: Hội Tương tế, Hội Hiếu hỉ, Hội Học quốc ngữ, Hội Đọc sách…
Về mặt đối nội, Việt Minh chủ trương xây dựng nền kinh tế, tài chính độc lập, xóa bỏ mọi thứ thuế vô lý, chia lại công điền, công thổ một cách công bằng hơn cho cả nam và nữ. Tịch thu hết tài sản của đế quốc phát xít Nhật, Pháp và của Việt gian, Hán gian để làm của công hoặc chia cho dân cày nghèo cày cấy. Việt Minh cũng ban bố các quyền tự do dân chủ; thực hiện chế độ nam nữ bình quyền, dân tộc bình đẳng… Về đối ngoại, Việt Minh chủ trương thân thiện với tất cả các nước tán thành nền độc lập của Việt Nam: “Việt Minh sẵn sàng bắt tay các dân tộc bị áp bức châu Á, nhất là các dân tộc Trung Quốc, Triều Tiên, Miến Điện, Ấn Độ, đặng cùng các dân tộc ấy thành lập mặt trận liên minh chống đế quốc, phát xít”.
Sau khi thành lập, Mặt trận Việt Minh đã công bố chương trình thể hiện chủ trương cứu nước của Đảng: “Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Chương trình của Việt Minh được tóm tắt thành “Mười chính sách của Việt Minh” và phổ biến trong nhân dân, dễ hiểu, dễ nhớ: "Việt Nam độc lập đồng minh/ Có bản chương trình đánh Nhật, đánh Tây/ Quyết làm cho nước non này/ Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền/... Chúng ta có Hội Việt Minh/ Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh/... Khuyên ai nên nhớ chữ đồng/ Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh".
Chính sách đoàn kết, tập hợp lực lượng toàn dân của Mặt trận Việt Minh ngày càng được bổ sung, hoàn chỉnh, trên cơ sở thực tiễn tình hình và yêu cầu của cách mạng. Nhiều chỉ thị, lời kêu gọi và cả các truyền đơn của Tổng bộ Việt Minh được truyền đi tới các địa phương và phổ biến tới nhân dân. Đặc biệt, Mặt trận Việt Minh đã đề ra Chương trình cứu nước gồm 44 điểm bao gồm các chính sách về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, các tầng lớp nhân dân. Các chính sách này nhằm thực hiện hai mục tiêu: Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập; Làm cho dân Việt Nam sung sướng, tự do[6]. Những chính sách của Mặt trận Việt Minh đã được ghi trong Nghị quyết của toàn quốc Hội nghị Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 14-15/8/1945, cụ thể hóa thi hành 10 chính sách Việt Minh[7], trở thành những nội dung cơ bản trong đường lối đối nội và đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công.
Để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa đánh đuổi Nhật-Pháp, Việt Minh triển khai công tác tuyên truyền mạnh mẽ, tích cực xây dựng và phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa Tháng Tám. Với chủ trương, chính sách đúng đắn, từ cuối năm 1941, Mặt trận Việt Minh đã thu hút được ngày càng đông đảo các tầng lớp, giai cấp có tinh thần yêu nước và chống đế quốc thực dân vào các hội cứu quốc. Mặt trận Việt Minh có cơ sở rộng rãi trong cả nước, trung tâm là Cao Bằng. Cuối năm 1941, tại Cao Bằng xuất hiện một số xã, tổng hoàn toàn tham gia Việt Minh. Đến năm 1942, Cao Bằng có 3 trên tổng số 9 châu hoàn toàn Việt Minh, xã nào cũng có Ủy ban Việt Minh. Bên cạnh Cao Bằng là trung tâm của phong trào cứu quốc cả nước, Mặt trận Việt Minh cũng được phát triển mạnh mẽ tại các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên,… Sang năm 1943, Ủy ban Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng lập ra 19 ban xung phong “Nam tiến” để liên lạc với căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai và phát triển lực lượng cách mạng xuống các tỉnh miền xuôi.
Từ thực tiễn phong trào Việt Minh trong hai năm (1941 - 1942) có những bước phát triển đáng kể và những biến đổi của tình hình thế giới, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp từ ngày 25 - 28/2/1943 ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên) để bàn về việc mở rộng Mặt trận Dân tộc Thống nhất và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị chủ trương mở rộng hơn nữa Mặt trận Việt Minh, liên minh với các đảng phái, nhóm yêu nước cả trong và ngoài nước. Thực hiện chủ trương đó, năm 1943, Hội Văn hoá Cứu quốc - một thành viên của Mặt trận Việt Minh đã được thành lập. Tháng 6/1944, Đảng ta đã giúp những trí thức tiến bộ, yêu nước thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam, thu hút họ vào Mặt trận Việt Minh.
Trong hai năm (1943 - 1944), các đoàn thể của Mặt trận Việt Minh được thành lập và phát triển nhanh chóng ở khắp các tỉnh, thành phố, trong các nhà máy, trường học. Tại Hà Nội, tổ chức Việt Minh đã được phát triển mạnh trong các nhà máy xe lửa Gia Lâm, nhà máy sửa chữa ô tô AVIA, STAI, ở các trường trung học Bưởi, Gia Lâm, trường Kỹ nghệ thực hành,... Tại Sài Gòn, Gia Định và một số thành phố khác ở miền Nam, tổ chức Việt Minh đã được thành lập với nhiều tổ chức thành viên như công hội, thanh niên, phụ nữ,... Đặc biệt tại Việt Bắc, trên cơ sở các “xã hoàn toàn”, “tổng hoàn toàn”, các căn cứ địa cách mạng đã được thành lập ở khắp các tỉnh. Bước sang đầu năm 1944, tình hình nước ta và thế giới chuyển biến có lợi cho cách mạng. Cuộc chiến tranh chống phát xít bước vào giai đoạn kết thúc. Trước sự phát triển của Mặt trận Việt Minh và trước yêu cầu của cách mạng, các đội Cứu quốc quân được thành lập. Các đội Cứu quốc quân đã tích cực vận động quần chúng tham gia các hoạt động của Mặt trận, mở rộng căn cứ cách mạng, phát triển vũ trang tuyên truyền.
Đầu tháng 5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp sửa soạn khởi nghĩa và kêu gọi nhân dân “sắm vũ khí đuổi thù chung”. Không khí chuẩn bị khởi nghĩa sôi sục trong khu căn cứ. Để chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập và lập được chiến công ngay từ những trận đầu ra quân ở Phai Khắt, Nà Ngần.
Như vậy, Mặt trận Việt Minh ra đời với chủ trương đoàn kết tập hợp mọi lực lượng vào Mặt trận Dân tộc Thống nhất chống Pháp - Nhật đã góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị lực lượng chính trị và vũ trang cho cách mạng Việt Nam. Với mục tiêu độc lập dân tộc là trên hết, Mặt trận Việt Minh đã trở thành trung tâm tập hợp mọi tầng lớp ở mọi miền Tổ quốc hăng hái tham gia các tổ chức “cứu quốc”, chuẩn bị sẵn sàng để chuyển cách mạng Việt Nam sang thời kỳ cao trào, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Đến giữa năm 1945, Việt Minh đã có 5 triệu hội viên.
Vai trò nổi bật nhất của Việt Minh trong Cách mạng Tháng Tám là cùng với Đảng phát động toàn dân nổi dậy kháng Nhật cứu nước và Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Ngày 9/3/1945, Nhật nổ súng lật đổ Pháp. Quân Pháp ở Đông Dương chống cự yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng. Phát xít Nhật độc chiếm Đông Dương, “trao trả độc lập” cho Bảo Đại và dựng lên Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Trước tình hình đó, ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra “Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, xác định: Đế quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể trước mắt - duy nhất của nhân dân Đông Dương. Tại hội nghị, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Để tích cực chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa, các cơ sở Mặt trận Việt Minh được chú trọng mở rộng nhằm tranh thủ mọi lực lượng yêu nước, thực hiện chính sách đoàn kết, phân hoá hàng ngũ kẻ thù. Ngày 12/4/1945, Mặt trận Việt Minh đã ra lời kêu gọi Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị quan chức ái quốc Việt Nam và Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị huynh thứ ái quốc.
Cùng với việc củng cố, mở rộng Mặt trận, đề ra chủ trương, chính sách đúng đắn, Đảng và Mặt trận Việt Minh còn kịp thời đề ra khẩu hiệu đấu tranh đúng đắn, phù hợp: “Phá kho thóc giải quyết nạn đói”. Chủ trương này đã đáp ứng đúng nguyện vọng bức thiết của nhân dân và qua phong trào này quần chúng nhân dân đã nhận rõ rằng muốn giành quyền sống cho mình phải đoàn kết dưới ngọn cờ của Việt Minh đấu tranh đánh đổ ách thống trị của phát xít Nhật và bè lũ tay sai của chúng. Khẩu hiệu này có ý nghĩa to lớn đã “thổi bùng ngọn lửa căm thù trong đông đảo nhân dân và phát động quần chúng vùng dậy với khí thế cách mạng hừng hực tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền”[8].
Với chính sách mở rộng và phát triển tổ chức Việt Minh, từ tháng 5/1945, trong phong trào thanh niên, sinh viên ở Nam Bộ đã ra đời tổ chức “Thanh niên Tiền phong”. Tổ chức này được thành lập từ Sài Gòn, sau đó lan rộng ra hầu khắp các tỉnh Nam Bộ. Tính chung ở Nam Bộ đến tháng 8/1945, tổ chức đã có trên 1 triệu đoàn viên, riêng ở thành phố Sài Gòn số đoàn viên có tới 20 vạn. Ở nhiều tỉnh trên khắp đất nước, tổ chức Việt Minh đã có cơ sở trong các công sở, các đội bảo an binh và chính các cơ sở này đã góp một phần không nhỏ vào việc giành chính quyền ở các cấp trong ngày tổng khởi nghĩa.
Chính sách đại đoàn kết dân tộc “kháng Nhật cứu nước” của Mặt trận Việt Minh đã thu hút ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia và tác động mạnh mẽ góp phần dẫn tới sự phân hoá trong các tổ chức chính trị, đảng phái ở nước ta lúc bấy giờ. Nội các Trần Trọng Kim đã bị phân hoá trước thắng lợi của cao trào cách mạng. Trước sức mạnh của quần chúng nhân dân, một số thành viên của nội các này đã ngả theo cách mạng, trong đó có một số trí thức có tên tuổi.
Ngày 11/8/1945, Chính phủ Nhật chấp nhận đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Ngày 16/8/1945, Mặt trận Việt Minh tổ chức Đại hội Quốc dân Tân Trào đã quyết định tổng khởi nghĩa và kêu gọi nhân dân toàn quốc đứng lên giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trên nền tảng hoàn toàn độc lập. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám diễn ra nhanh chóng, chỉ trong vòng chưa đầy nửa tháng, chính quyền thống trị của đế quốc gần 100 năm và chế độ quân chủ tồn tại nghìn năm ở nước ta về cơ bản bị sụp đổ hoàn toàn.
Kế tục vai trò lịch sử của Việt Minh cũng như các hình thức tổ chức Mặt trận khác trước đây, hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục chủ trương phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam, không phân biệt quá khứ, thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, ý thức hệ, ở trong nước hay ở nước ngoài, miễn tán thành mục tiêu chung là giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ; thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" và thực hiện Di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh", góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Đặng Khánh Toàn
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 177
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr. 119
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr. 145
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr. 272
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 280
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 474.
[7] Cách mạng Tháng Tám: Xây dựng và củng cố chính quyền 1945 – 1646, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020, tr.31.
[8] Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 43.