Tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn huyện Gia Bình
Theo Quy hoạch tỉnh Bắc Ninh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050, huyện Gia Bình phát triển kinh tế theo hướng nông nghiệp. Với lợi thế phát triển về nông nghiệp, thuỷ sản, giáp thủ đô Hà Nội, thuận lợi về việc tiêu thụ nông sản, huyện đã tiếp tục tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn; ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái để nâng cao năng suất, chất lượng; hiệu quả, có sức cạnh tranh. Đồng thời, xây dựng vùng chuyên canh, nâng cao hiệu quả “Chương trình mỗi xã, thị trấn một sản phẩm”.
Thu hoạch củ cải đường tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình
Huyện có tổng diện tích hàng năm vào khoảng 11.000 ha; trong đó diện tích cấy lúa là 8.660 ha còn lại là diện tích nuôi trồng thủy sản và đất chuyên mầu đất bãi ven sông. Sau khi hoàn thành công tác "Dồn điền đổi thửa" vào năm 2011, bình quân mỗi hộ chỉ còn 1,54 thửa đây là điều kiện thuận lợi để huyện Gia Bình chỉ đạo đưa cơ giới hóa vào đồng ruộng thay dần sức lao động của người dân; đồng thời thuận lợi cho việc chỉ đạo quy vùng sản xuất chuyên canh tập trung với các giống cây trồng có năng suất chất lượng cao nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trên cùng đơn vị diện tích.
Huyện đã cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thông qua các Nghị quyết, Đề án cụ thể. Các dự án nhà màng, nhà lưới, nhà kính trên địa bàn huyện trong những năm qua đã không ngừng tăng lên, năm 2020 trên địa bàn huyện mới có 0,5ha thì đến năm 2022 huyện đã có 5,4 ha nhà màng, nhà lưới, nhà kính. Việc trồng dưa lưới, dưa baby, rau ăn lá các loại trong nhà màng, nhà kính đã đem lại hiệu quả kinh tế cao gấp 10 lần so với phương pháp truyền thống. Vụ mùa năm 2022, huyện đã ứng dụng thiết bị bay không người lái thực hiện chương trình “cánh đồng không bước chân” cơ giới hóa đồng bộ từ gieo thẳng, bón phân, phun thuốc BVTV với diện tích trên 180ha, được nhân dân đánh giá cao, đây là chương trình giúp giảm công lao động nặng nhọc, giảm chi phí đầu vào, tăng năng suất lúa cao hơn từ 10-15% so với phương pháp gieo cấy truyền thống. Huyện đã hình thành 11 vùng trồng trọt tập trung với quy mô lớn như: sản xuất rau thủy canh với DT 5ha tại Bình Dương; sản xuất rau an toàn với 20ha tại HTX Ngăm Mạc; sản xuất giống lúa Nhật thu mua thóc tươi với DT 10ha tại xã Đông Cứu; trồng tỏi 1 nhánh tại xã Xuân Lai với diện tích 30 ha; bí xanh, bí đỏ tại các xã: Quỳnh Phú, Nhân Thắng, Vạn Ninh; Cà rốt 510 ha trên đất bãi, trồng hoa ở Thái Bảo. chủ yếu là diện tích trồng lúa hàng hóa, trồng tỏi, cà rốt, cây dược liệu, hoa, cây ăn quả ở các xã: Bình Dương, Cao Đức, Thái Bảo, Lãng Ngâm, Đại Lai, Xuân Lai… Trong đó có một số doanh nghiệp, HTX và người dân đã mạnh dạn đầu tư vốn, khoa học kỹ thuật sản xuất hoa, rau xanh thủy canh trong nhà lưới, nhà kính, áp dụng quy trình VietGAP, xây dựng kho lạnh bảo quản nông sản cho hiệu quả kinh tế cao.
Tuy nhiên trong quá trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao vẫn còn bộc lộ một số tồn tại là:
- Lực lượng lao động chủ yếu của huyện là lao động lớn tuổi việc tiếp thu công nghệ còn hạn chế, đội ngũ quản lý còn chưa được đạo tạo cơ bản.
- Diện tích nông nghiệp công nghệ cao vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ lên lượng hàng hóa sản xuất ra khó cạnh tranh, giá thành cao.
- Đội ngũ quản lý còn chưa qua đào tạo, việc áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật còn hạn chế.
- Sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra chủ yếu ở dạng thô nên tính cạnh tranh và giá trị sản phẩm chưa cao.
Để khắc phục những tồn tại trong nông nghiệp, đồng thời đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ phát triển nông nghiệp theo kế hoạch đề ra. Trong thời gian tới huyện Gia Bình sẽ tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp cụ thể như sau:
Một là, phát triển nông nghiệp công nghệ cao, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới, xây dựng vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với liên kết chuỗi sản xuất và tiêu thụ nông sản.
Hai là, tăng cường tập trung và tích tụ ruộng đất: Củng cố, phát triển các hình thức tổ chức sản xuất: doanh nghiệp, trang trại, tổ liên kết sản xuất, hợp tác xã để tạo điều kiện cho tích tụ ruộng đất.
Ba là, giải quyết tốt vấn đề lao động nông thôn: Cần huy động lao động trẻ, có trình độ kỹ thuật tham gia sản xuất nông nghiệp. Có cơ chế chính sách khuyến khích lao động trẻ đầu tư phát triển sản xuất trồng trọt.
Bốn là, thực hiện tốt công tác đào tạo và ứng dụng khoa học công nghệ: Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong nông nghiệp, nhất là công nghệ sinh học kết hợp với công nghệ thông tin, công nghệ 4.0 trong nông nghiệp. Chú trọng tạo và sử dụng giống cây có năng suất, chất lượng và giá trị cao... để hàng nông sản có khả năng cạnh tranh trên thị trường, nhất là phục vụ tốt cho thị trường xuất khẩu.
Năm là, tăng cường liên kết sản xuất gắn với bao tiêu sản phẩm: Đẩy mạnh việc liên kết 4 nhà trong sản xuất nông nghiệp là nhà nông – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp – nhà nước tạo ra các mối liên kết vững chắc trong sản xuất nông nghiệp.
Sáu là, bảo vệ môi trường hướng đến nông nghiệp phát triển bền vững: Nâng cao dân trí và ý thức của mọi người về cách sống văn minh và bảo vệ môi trường. Xây dựng vùng sản xuất chuyên canh nông nghiệp theo hướng an toàn, VietGap và tiến đến sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
Nguyễn Thị Mai – Văn phòng Tỉnh ủy