Sự hình thành tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

23/06/2021 14:30 Số lượt xem: 306

Vấn đề độc lập cho dân tộc và khát vọng tự do cho nhân dân là xuất phát điểm, là nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, được nuôi dưỡng bởi những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, có sự tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại.

Sinh thời trong cảnh nước nhà bị nô dịch, lầm than, người thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành đã sớm thức tỉnh, đau đáu nỗi niềm cứu nước, cứu dân. Người chọn hướng đi sang các nước tư bản phương Tây tìm hiểu sự thật đằng sau khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”, xem người ta làm thế nào rồi trở về giúp đồng bào mình. Trước ngày ra đi tìm con đường cứu nước mới, Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc) bàn với một người bạn thân về chuyến đi ra nước ngoài. Anh nói: “tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm... Anh muốn đi với tôi không?”

Khi người bạn hỏi lấy đâu ra tiền mà đi, Nguyễn Tất Thành vừa nói vừa giơ hai bàn tay: “Đây, tiền đây... chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi”.

           Ngày 5/6/1911, tại bến cảng Nhà Rồng, Người bắt đầu chuyến hành trình trên con tàu Amiral Latouche Tresville, mang theo khát vọng cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”[1]. Điều này sớm đã thể hiện tư tưởng, ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, mang tầm nhìn thời đại của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Ngày 15 tháng 7 năm 1911, tàu đến Lơ Havơrơ (Le Havre), cảng chính ở miền Bắc nước Pháp. Những ngày đầu tiên trên nước Pháp, được chứng kiến ở Pháp cũng có những người nghèo như ở Việt Nam, Nguyễn Tất Thành nhận thấy có những người Pháp trên đất Pháp còn tốt và lịch sự hơn những tên thực dân Pháp ở Đông Dương. Năm 1912, Nguyễn Tất Thành làm thuê cho một chiếc tàu của hãng SácgiơRêuyni đi vòng quanh châu Phi, đã có dịp dừng lại ở những bến cảng của một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây, Xênêgan, Rêuyniông… Đến đâu Nguyễn Tất Thành cũng thấy cảnh nghèo khổ của người lao động dưới sự bóc lột áp bức dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Những sự việc nhìn thấy trên đường anh đi tạo nên mối đồng cảm sâu sắc với số phận chung của nhân dân các nước thuộc địa. Nguyễn Tất Thành theo con tàu tiếp tục qua Máctiních (Trung Mỹ), Urugoay và Áchentina (Nam Mỹ) và dừng lại ở nước Mỹ cuối năm 1912. Tại đây anh có dịp tìm hiểu cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ với Bản tuyên ngôn độc lập nổi tiếng trong lịch sử. Dừng chân ở nước Mỹ không lâu nhưng Nguyễn Tất Thành đã sớm nhận ra bộ mặt thật của đế quốc Hoa Kỳ. Đằng sau khẩu hiệu “cộng hòa dân chủ” của giai cấp tư sản Mỹ là những thủ đoạn bóc lột nhân dân lao động rất tàn bạo. Anh cảm thông sâu sắc với đời sống của nhân dân lao động da đen và rất căm giận bọn phân biệt chủng tộc, hành hình người da đen một cách man rợ, mà sau này anh đã viết lại trong bài báo “Hành hình kiểu Linsơ”. Khi thăm pho tượng Thần Tự do, Nguyễn Tất Thành không để ý đến ánh hào quang quanh đầu tượng mà mong muốn đem đến cho nhân dân lao động cuộc sống ấm no, hạnh phúc khi xúc động trước cảnh những nô lệ da đen dưới chân tượng:

Nước Mĩ hoa lệ đây ư?

Thần tự do đứng nhân từ đấy sao?

Hỏi sao nô lệ đồng bào

Dưới chân tượng vẫn than gào khổ đau

Hào quang tượng sáng trên đầu

Sao không tỏa đến nỗi đau khốn cùng?

 Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành từ Mỹ sang Anh và cuối năm 1917 trở lại Pháp. Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các nước thắng trận họp Hội nghị hoà bình ở Véc-xai (Pháp) tháng 6-1919 để chia phần. Thay mặt Hội những người ViệtNam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị bản yêu sách 8 điểm. Những yêu sách dù khiêm tốn của Người cũng không được Hội nghị chấp nhận. Sự kiện này đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ “chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn”. Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình. Điều này càng thể hiện rõ ý thứ tự lực, tự cường của Người cũng như mong muốn của Người đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn lúc bây giờ, nó khác với quan điểm của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đương thời.

           Như vậy, sinh sống và làm việc tại nhiều nước tư bản phương Tây cũng như châu Mỹ đã giúp Nguyễn Tất Thành nhận thức và vạch rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản: Ở đâu đâu đế quốc tư bản thực dân cũng dã man, tàn bạo, cũng đầy rẫy những quan hệ phi nhân tính; ở đâu đâu những người lao động nghèo khổ, bần cùng cũng là bạn bè, anh em, đồng chí của nhau, họ phải được tập hợp lại, đứng lên đấu tranh giải phóng.

Trong bối cảnh trên, tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc[2] đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Luận cương của Lênin đã giúp Người giải đáp những vấn đề cơ bản về con đường giải phóng dân tộc mà Người tìm kiếm bấy lâu. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[3]. Tháng 12/1920, Người đã gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, đánh dấu sự chuyển biến mang tính bước ngoặt trong tư tưởng của Người từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản.

           Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc phê phán vua Khải Định khi ông ta sang Pháp dự hội chợ thuộc địa. Qua truyện ngắn “Lời than vãn của Bà Trưng Trắc”, vở kịch “Con rồng tre”, Người lên án ông ta là “đớn hèn, bất lực và ngu dốt”, cam tâm làm tôi tớ cho thực dân Pháp. Một lần nữa, đây là một minh chứng  khẳng định ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh

      Sau khi xác định con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về trong nước. Người đã mang đến một luồng gió mới về đấu tranh cách mạng đối với nhân dân Việt Nam, nhân dân các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc, khơi dậy trong họ tinh thần đoàn kết đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, thổi bùng ngọn lửa đấu tranh theo khuynh hướng cách mạng vô sản ở nước ta trong những năm 30 của thế kỷ XX, đưa tới sự ra đời của chính đảng vô sản Việt Nam, mở ra thời đại cách mạng rực rỡ dưới sự lãnh đạo của Đảng, với những dấu ấn lịch sử mang tầm vóc vĩ đại.

Tóm lại, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng về quyền sống chân chính của dân tộc đã bồi đắp tư tưởng, sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và lan tỏa trong mọi giai tầng xã hội Việt Nam. Nói cách khác, chính chủ nghĩa yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước “đàng hoàng”, “to đẹp” đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, đặt nền móng cho sự phát triển tư tưởng mácxít ở Việt Nam, tạo ra những điều kiện căn bản, tiên quyết đưa đến những thành công của cách mạng nước nhà.

Đặng Khánh Toàn

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

 

 


[1]Đảng Cộag.sàn Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, H, 1975, tr 5 - 6.

[2] Năm 1919, khi hoạt động ở Pháp, Bác lấy tên Nguyễn Ái Quốc.

[3]Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 1, tr. IX.