Đổi mới nền công vụ theo tinh thần Nghị quyết số 76/NQ-CP, ngày 15/7/2021 của Chính phủ về việc ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2021-2030
Như chúng ta đã biết Cải cách công vụ, công chức trên cơ sở chuyển nền công vụ chức nghiệp sang nền công vụ theo vị trí việc làm để xây dựng nền công vụ tiên tiến, chuyên nghiệp và hiện đại, phù hợp với mục tiêu hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế là một cuộc chuyển đổi cơ bản, có tính cách mạng, phải vượt qua nhiều thách thức. Theo đó, xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức để họ có đầy đủ phẩm chất, năng lực mới theo yêu cầu của một nền công vụ tiên tiến, chuyên nghiệp và hiện đại là nhiệm vụ hết sức quan trọng, đòi hỏi cả hệ thống chính trị cùng dốc sức, quyết tâm thực hiện.
Công vụ là hoạt động mang tính quyền lực - pháp lý, được thực hiện bởi đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, nghĩa là đội ngũ này được Nhà nước trao quyền nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quá trình quản lý toàn diện các mặt hoạt động của đời sống xã hội. Công vụ là phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân, gắn với quyền lực nhà nước. Nói chung, chế độ công vụ, công chức là chế độ chính trị - pháp lý chịu sự chi phối nhiều bởi yếu tố chính trị. Do vậy, ở các quốc gia khác nhau, khái niệm về công vụ cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Ở Việt Nam, công vụ được hiểu như sau: Với nghĩa rộng, công vụ thuộc khu vực công, tương ứng với “hệ thống chính trị”; chủ thể trực tiếp hoạt động công vụ là cán bộ, công chức, viên chức của cả hệ thống này trong thực thi chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền quy định. Như vậy, hoạt động công vụ bao hàm hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam (là tổ chức lãnh đạo Nhà nước và xã hội), Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Với nghĩa hẹp, công vụ thuộc khu vực của “Nhà nước”, tương ứng với chủ thể công vụ là các cơ quan nhà nước và chủ thể trực tiếp hoạt động công vụ là cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước, thực hiện chức năng, nhiệm vụ công theo quy định của pháp luật.
Hoạt động do cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy của Nhà nước, trong tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và nhiều tổ chức xã hội khác thực hiện, thực chất đều là hoạt động phục vụ lợi ích công. Điều này bắt nguồn từ bản chất của Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và mục tiêu chung của hệ thống chính trị. Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Hoạt động công vụ của cán bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của Luật này và các quy định khác có liên quan”.
Nền công vụ Việt Nam có lịch sử phát triển hơn 70 năm, kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 2-9-1945 với bản Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) của một nước tự do và độc lập. Với Sắc lệnh số 18-SL/1945, ngày 18-8-1945, Chính phủ lâm thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuyển đổi chế độ quan lại trong hệ thống hành chính thuộc địa của Pháp sang chế độ công vụ dựa trên năng lực và đạo đức của Chính phủ lâm thời. Đến năm 1950, tại Sắc lệnh số 76/SL, ngày 20-5-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những quy định xác định công chức là “những công dân được giao những nhiệm vụ cụ thể trong bộ máy chính quyền nhân dân”, “dưới sự lãnh đạo của Chính phủ”. Sắc lệnh chính thức đưa ra những nguyên tắc quản lý công chức, như tuyển dụng công chức dựa trên thực tài, bao gồm trình độ, kinh nghiệm và bằng cấp, cũng như tuyển dụng và bố trí thông qua thi tuyển, đồng thời đưa ra một hệ thống trả lương theo ngạch, cấp bậc và khen thưởng những người có thành tích xuất sắc. Tuy nhiên, do công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước kéo dài nên hệ thống công vụ đã được điều chỉnh bằng nhiều văn bản pháp quy khác nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời chiến.
Bước vào giai đoạn đổi mới, thực hiện Hiến pháp năm 1992, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998, quy định đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức tốt, năng lực, trình độ chuyên môn, tận tụy phục vụ nhân dân và trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cán bộ, công chức và bộ máy tổ chức của nền công vụ đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước.
Sau hai lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 2000 và năm 2003, Quốc hội đã tiếp tục ban hành Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Luật Viên chức năm 2010, trong đó phân tách rõ cán bộ, công chức, cán bộ, công chức cấp xã và viên chức; xác lập cơ chế hoạt động công vụ theo vị trí việc làm và thực tài thay thế cho cơ chế công vụ chức nghiệp. Theo đó, hệ thống công vụ phát triển theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, tách bạch hoạt động công vụ của cán bộ, công chức với hoạt động nghề nghiệp của viên chức.
Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Hiến pháp cũng quy định nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước là: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội XII của Đảng đã xác định nhiệm vụ hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước là: Đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước theo hướng xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, phục vụ nhân dân, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Hoàn thiện thể chế hành chính dân chủ - pháp quyền, quy định trách nhiệm và cơ chế giải trình của các cơ quan nhà nước; giảm mạnh, bãi bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp. Đề cao đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và thực thi công vụ của cán bộ, công chức; đẩy nhanh việc áp dụng chính phủ điện tử. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã đề ra mục tiêu: “Kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân dân. Củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng”.
Tiếp tục xây dựng nền hành chính nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân là quyết tâm chính trị đã được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định, cần được quán triệt đầy đủ từ nhận thức đến hành động trong thời gian tới. Trong đó, trọng tâm là xây dựng bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ nhân dân. Theo tinh thần đó ngày 15/7/2021, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 76/NQ-CP, ngày 15/7/2021 của Chính phủ về việc ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2021-2030 trong đó tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm và cơ bản như sau:
Thứ nhất, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Khẩn trương trình Chính phủ ban hành và tổ chức thực hiện Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030 theo hướng toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, từng bước hiện đại đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; lấy người dân làm trung tâm, lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.
Thứ hai, đẩy mạnh đổi mới bộ máy Chính phủ tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực, khắc phục triệt để những chồng chéo, giao thoa về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, cơ quan ngang bộ; đảm bảo nguyên tắc một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính. Phát huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ tập trung vào xây dựng thể chế kiến tạo phát triển, quản trị quốc gia và tổ chức thi hành pháp luật theo tinh thần thượng tôn pháp luật. Chính phủ có đủ năng lực, đủ khả năng giải trình; tạo ra tầm nhìn tốt và chính sách tốt; sự tương tác thân thiện với xã hội, người dân, với thị trường và doanh nghiệp; tạo ra và chia sẻ sự phát triển. Tích cực đổi mới phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để kiến tạo phát triển và phục vụ nhân dân; tăng cường năng lực dự báo, phân tích và đề xuất chính sách dựa trên luận cứ khoa học và thực tiễn trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Triển khai mạnh mẽ việc xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số nhằm ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ để đổi mới phương thức làm việc, nâng cao năng lực quản lý, điều hành thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của cơ quan hành chính các cấp, tạo động lực thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia một cách toàn diện để phát triển nền kinh tế số, xã hội số. Trong đó, Cổng Dịch vụ công Quốc gia phải là điểm khởi đầu quan trọng nhất của Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030, đảm bảo đến năm 2023, toàn bộ các dịch vụ hành chính công sẽ được tích hợp lên Cổng Dịch vụ công Quốc gia.
Thứ ba, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành và giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương; khắc phục tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Đồng thời, phân định rõ trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân, bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất, thông suốt và hiệu quả; phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng đơn vị và từng cá nhân người đứng đầu bộ, ngành, địa phương và đơn vị. Nghiên cứu, triển khai các biện pháp đổi mới phương thức làm việc, nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước các cấp trên cơ sở ứng dụng mạnh mẽ các tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin.
Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và nghiên cứu thí điểm tổ chức ở cấp tỉnh phù hợp với quan điểm chỉ đạo của Đảng “... khuyến khích sáp nhập, tăng quy mô các đơn vị hành chính các cấp ở những nơi có đủ điều kiện để nâng cao năng lực quản lý, điều hành và tăng cường các nguồn lực của địa phương”(9) và quy hoạch tổng thể đơn vị hành chính các cấp. Chính quyền các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần chủ động phối hợp với Trung ương tổng kết việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2019-2021 và đề xuất nội dung xây dựng kế hoạch, lộ trình sắp xếp đơn vị hành chính các cấp trong giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2030 để báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Hoàn thiện hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao. Đẩy mạnh việc chuyển giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh mẽ các loại hình kinh tế tham gia cung cấp dịch vụ công; rà soát, chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập có đủ điều kiện sang công ty cổ phần.
Thứ năm, tập trung đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức, có cơ chế khuyến khích, khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Đây là yêu cầu có tính cốt lõi, quyết định thành công cho sự phát triển nhanh, bền vững đất nước. Chú trọng tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu và của đội ngũ công chức, viên chức để có thể áp dụng được thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cho những cố gắng thực hiện cải cách hành chính. Trong giai đoạn tới, cần thúc đẩy những cải cách cần thiết để có được đội ngũ công chức, viên chức chuyên nghiệp, trách nhiệm, tâm huyết và tài năng hơn. Tất cả phải bắt đầu từ cơ chế, nhất là cơ chế, chính sách tuyển chọn đầu vào cán bộ, công chức, viên chức; cơ chế lựa chọn, thu hút, trọng dụng nhân tài; cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.v.v. Bảo đảm cơ hội thăng tiến của công chức theo thành tích, sản phẩm công việc thực tế và phẩm chất đạo đức, uy tín của công chức. Các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm đó phải gắn với chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng; với việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Qua đó, thiết thực góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Trên cơ sở đó, Đảng bộ, chính quyền nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã và đang tiếp thục thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp đổi mới chế độ công vụ trên địa bàn tỉnh cụ thể:
Bộ máy hành chính hoạt động hiệu quả, bớt trùng lắp, chồng chéo về chức năng nhiệm vụ; đầu mối các cơ quan, đơn vị được thu gọn; cơ cấu bên trong có sự phân định rõ hơn giữa cơ quan quản lý nhà nước và đơn vị sự nghiệp. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng cao, tính thống nhất, công khai, minh bạch của nền hành chính đã được cải thiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước được điều chỉnh phù hợp, bảo đảm quản lý nhà nước và phục vụ xã hội. Thực hiện thu gọn 190 đầu mối các cơ quan, đơn vị; trong đó có: 01 cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND tỉnh; 76 phòng, Chi cục, Trung tâm và tương đương thuộc Sở, UBND cấp huyện và 113 phòng và tương đương thuộc các Trung tâm, Chi cục. Công tác quản lý biên chế đã được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ; cắt giảm 144 chỉ tiêu biên chế công chức, 1.830 người làm việc và 59 hợp đồng lao động theo Nghị định 68.
Cải cách công vụ, công chức được đổi mới và có tiến bộ. Tỉnh từng bước rà soát, điều chỉnh và ban hành đồng bộ hệ thống tiêu chuẩn, ngạch công chức; tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức; hoàn thiện việc phê duyệt danh mục vị trí việc làm, bản mô tả công việc và khung năng lực vị trí việc làm trong các cơ quan, tổ chức hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập. Từ đó, làm cơ sở cho việc tuyển dụng 263 công chức, 3.244 viên chức đảm bảo công khai, minh bạch, khách quan./.
Nguyễn Văn Thái
Phó trưởng Ban Thường trực - Ban Nội chính Tỉnh ủy